Bài viết của PGS. TS. Nguyễn Xuân Thạch
Có người bạn nói với tôi về cuốn hồi kí của Nguyên Ngọc. Thú thật, tôi không quá chờ đợi cuốn sách ấy. Với một nhà văn vẫn còn nguyên vẹn sự minh mẫn thì cảm giác một cuốn hồi kí thật buồn bã. Nó như một bản tổng kết cho một hành trình sáng tạo. Và thế là hết…
Vậy thì tại sao lại phải chờ cuốn sách ấy khi Nguyên Ngọc đã có những thứ vô cùng hay. Lục lại tủ sách của mình mới giật mình nhớ ra rằng năm 2021, Các bạn tôi ở trên ấy đã được lặng lẽ tái bản, kèm theo một thế giới ảnh minh hoạ tuyệt đẹp do chính Nguyên Ngọc chụp. Ảnh những nhà rông “đực”, hình lưỡi rìu, vút lên như một cánh chim; ảnh những người phụ nữ Tây Nguyên làm rượu cần; ảnh những người đàn ông Giẻ Triêng thổi đinh tút bên thềm nhà, khoác váy phụ nữ; và nhất là ảnh những nhân vật của ông, ông Núp, ông Y Yơn, bà Hben khoác thổ cẩm, đẹp như bước ra từ sử thi; rồi ảnh Georges Condominas, ảnh Jacques Dournes. Thế giới ảnh làm cho cuốn sánh đẹp không khác gì Xứ Jorai của Jacques Dournes. Các bạn tôi ở trên ấy là cuốn sách hay nhất trong cuộc đời viết văn của Nguyên Ngọc, đặt cạnh tất cả những gì ông đã viết.
Tại sao vậy?
Tập bút kí của Nguyên Ngọc được viết bằng một thứ thi pháp mang tính phủ định. Lặp đi lặp lại đó là một cấu trúc “Tây Nguyên không phải là….Tây Nguyên là…..”. Âm nhạc Tây Nguyên không phải là hú hét. Âm nhạc Tây Nguyên có một thứ trữ tình và da diết đặc biệt. Cồng chiêng Tây Nguyên không phải là thứ ở trên sân khấu. Cồng chiêng chỉ tồn tại trong không gian của nó, vọng từ vách núi này sang vách núi kia. Nghệ thuật Tây Nguyên không phải là thứ để trưng bày hay để bán. Nó chỉ có ý nghĩa trong cái tiến trình mặc khải và tạo tác của người thực hành. Xong là bỏ trong rừng cho hư hoại. Rượu cần Tây Nguyên không phải là rượu gạo của người Kinh. Rượu cần được làm từ cây lá trong rừng và sự say đắm của người phụ nữ Tây Nguyên. K’lông pút Tây Nguyên không phải là thứ được mắc lên giá, đưa lên sân khấu…. Rất nhiều những phủ định như thế. Nó là một nỗ lực tìm kiếm Tây Nguyên thực sự Tây Nguyên của một người đã sống với Tây Nguyên và “những rẻo cao mây phủ” suốt cả tuổi trẻ và đã “quy y” núi rừng, như cách nói của chính Nguyên Ngọc.
Nhưng có một thứ không hề bị phủ định trong sách của Nguyên Ngọc: những con người và quãng đời đã làm nên chính ông. Bạn bè tôi ở trên ấy giống như một album tập hợp tất cả những con người đã đi vào đời văn chương ông và làm nên ông: ông Núp trong Đất nước đứng lên; những người sống dưới tán rừng xà nu; những Thào Mỵ, những Sùng Choá Vàng trong Rẻo cao… Và những năm tháng ông lăn lộn ở Tây Nguyên, ở rừng núi Quảng Nam, ở những rẻo cao phía bắc trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Những thứ ấy thì Nguyên Ngọc không phủ định, nó vẹn nguyên như khi ông viết những dòng đầu về họ, về thời đại ấy, cái thời đại của Đường chúng ta đi.
Có một từ mà Nguyên Ngọc rất hay dùng trong Các bạn tôi ở trên ấy: “chiều kích”. Có lẽ đó là từ quan trọng nhất để hiểu cuốn sách này. Nó là kích thước của không gian là chiều, là cái véc tơ của tô pô Tây Nguyên mà Nguyên Ngọc dựng lên. Nó tương tự như việc người chụp ảnh thay đổi tiêu cự ống kính để có được một cái nhìn mới, phối cảnh mới về đối tượng. Vẫn con người ấy, không gian ấy nhưng chỉ cần thay một ống tele bằng một ống góc rộng, rất nhiều câu chuyện sẽ được kể. Câu chuyện của những thanh đàn đá là thế. Được G. Condominas phát hiện ra một cách tình cờ, được đưa về Paris nghiên cứu tỉ mỉ, cuối cùng, người ta mới phát hiện ra một điều kì diệu: đàn đá có cùng một thang âm với cồng chiêng Tây Nguyên. Cồng chiêng chính là sự tái tạo lại trên nhạc khí đồng thang âm của bộ gõ bằng đá đẽo. Nó giống như than âm của clavecin được đưa lên dương cầm. Nhưng không phải là sự đổi thay trong vài thế kỉ như ở phương Tây mà là khoảng cách cả ngàn năm từ thời đồ đá đến thời kim khí. Điều đó cho thấy một tính liên tục của văn hoá Tây Nguyên xuyên qua lịch sử, cho thấy cồng chiêng không chỉ là những nhạc khí của hôm nay, của vài trăm non trẻ mà mang trong nó kí ức âm thanh của hàng ngàn năm văn hoá Tây Nguyên. Chiều kích là thế. Nguyên Ngọc nhìn Núp không chỉ trong cái khoảnh khắc bắn mũi tên vào kẻ viễn chinh phương Tây hay trong những năm chống Pháp mà trong cả quãng đời còn lại, khi đã trở thành một huyền thoại và một biểu tượng. Ông nhìn Y Yơn như thế, nhình Ngọc Anh như thế, nhìn Thào Mỵ như thế, trong những năm tháng sau Đất nước đứng lên, sau Rẻo cao, đặt lại họ vào không gian của Tây Nguyên, của những vùng Mèo Hà Giang, vào cội nguồn văn hoá của họ, để nhìn họ trong một chiều sâu mới. Chiều kích là thế!
Sự thay đổi chiều kích của cái nhìn ấy khiến Nguyên Ngọc nhìn ra những điều mà rất nhiều người viết về “dân tộc thiểu số” khác không làm được. Nguyên Ngọc viết rất hay về phương pháp dân tộc học của Condominas, điều ông gọi là một “loại hình sống”: “Anh phải nhìn được họ từ bên trọng. Thậm chí không phải nhìn, mà là cảm, cảm bằng toàn bộ cơ thể mình. Phải hoàn toàn nhập thân, biến thành chính họ. Không thể đem thế giới quan của một người bên ngoài, càng không thể của một người phương Tây, với những chuẩn mực giá trị hoàn toàn khác đo đếm, định lượng và định chất cuộc sống cùng các giá trị của một cộng đồng (…)”. Đó cũng là điều Nguyên Ngọc đã làm được trong Các bạn tôi ở trên ấy. Ông nhìn những người sống trên cao nguyên và những người trên núi cao bằng “cái nhìn từ bên trong” ấy. Để phát hiện ra cái hệ giá trị riêng của họ, ra những triết lí, nhân sinh quan, vũ trụ quan đằng sau cách họ sống, cách họ kể sử thi, cách họ thực hành lễ hội, cách họ vào rừng và sống với rừng. Chính cái-nhìn-từ-bên-trong ấy đã khiến Nguyên Ngọc phát hiện ra những nhân vật vô cùng độc đáo: Y Yơn bỏ tất cả để về sống với rừng; mối tình của H’ben và anh nghệ sĩ vĩ cầm Thịnh, những người đã bỏ tất cả để về sống với rừng và đi sưu tầm dân ca Tây Nguyên; là Núp với căn bệnh thèm bếp lửa (có lẽ, thật hơn rất nhiều căn bệnh thiếu chân giời của Nguyễn Tuân); và nhiều con người khác. Nó cho thấy một nền văn hoá vô cùng đẹp đẽ, tinh tế và sâu sắc dựa trên mối quan hệ rất đặc biệt của con người và rừng: rứt ra khỏi rừng rồi cũng rất nhanh tan biến lại vào rừng.
Tôi vẫn nhớ một nữ nhà văn chuyên viết về miền núi tả một cuộc gặp của chị với một người phụ nữ già trên núi cao: bà già ấy từ trong rừng đi ra, mỉm cười với chị, rồi lại tan biến vào rừng. Chị thấy toát ra từ bà một sự hiền minh, một cái gì đó vô cùng sâu sắc nhưng tuyệt đối đóng kín với chị, tuyệt đối là thứ mà chị không thể hiểu được. Đó là cái giới hạn của không ít người viết về “đề tài miền núi”. Nguyên Ngọc vượt qua được cái giới hạn ấy. Bởi lẽ thẳm sâu, ông là con người dấn thân của những năm kháng chiến, đã lang thang khắp mọi nẻo đường Tây Nguyên, Tây Bắc và Quảng Nam. Sự dấn thân ấy giúp Nguyên Ngọc “tan hoà” vào thế giới của những người sống trong rừng. Nhưng chỉ điều đó không đủ. Những năm sau chiến tranh, Nguyên Ngọc không chỉ quay trở lại Tây Nguyên, quay trở lại Hà Tuyên (tôi vẫn nghĩ cái tên cũ ấy có ý nghĩa). Ông còn là người dịch Rừng, đàn bà, điên loạn: đi qua miền mơ tưởng Gia rai; Potao: một lí thuyết về quyền lực của người Jorai Đông Dương; Miền đất huyền ảo và là người hiệu đính Chúng tôi ăn rừng Đá thàn Gôo. Con người trí thức đã đưa ông đến với J.Dournes và G.Condominas và những nhà dân tộc học bậc thầy ấy đã làm nên một “chiều kích” thứ hai, trí tuệ và khoa học, bên cạnh cái chiều kích dấn thân của những năm Kháng chiến. Đó chính là cội nguồn làm nên những phát hiện của Nguyên Ngọc về Tây Nguyên, thứ mà chỉ dấn thân không thôi là không đủ.
Tôi không rõ hiện nay trẻ em có còn học Vợ chồng A Phủ, Đất nước đứng lên hay Rừng xà nu nữa hay không. Dẫu vậy, tôi vẫn mơ ước rằng, mỗi đứa trẻ, trước khi xong trung học sẽ đọc Các bạn tôi ở trên ấy, cuốn sách hay nhất của Nguyên Ngọc, có thể, không phải ở trong không gian lớp học. Sự đọc có giá trị nhất là sự đọc “vô tư lự” như thế. Và chúng sẽ hiểu rằng, ngoài thế giới này, còn có một thế giới khác. Để phải thấu hiểu và tôn trọng!